Nếu trong GDP, ngành thủy sản đóng góp tương đối yếu thì ngành đã có sự bù đắp lại bởi sự đóng góp mạnh mẽ vào kim ngạch xuất khẩu cả nước. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản nước ta qua các năm đã không ngừng tăng lên, điều đó thể hiện rõ nét qua bảng số liệu sau:

Vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân

Thủy sản là một ngành kinh tế- kỹ thuật đặc trưng gồm có các lĩnh vực: khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ thương mại, là một trong những ngành kinh tế biển quan trọng của đất nước. Sản xuất kinh doanh thủy sản dựa trên khai thác có hiệu quả, lâu bền nguồn lợi thủy sinh, tiềm năng các vùng nước, do vậy có mối liên ngành rất chặt chẽ với sản xuất nông nghiệp, vận tải, dầu khí, hải quan...

Xuất phát từ tiềm năng thiên nhiên to lớn, vai trò quan trọng của ngành thủy sản trong sự phát triển kinh tế- xã hội, nhất là trong 20 năm qua, với tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng về sản lượng và giá trị xuất khẩu. Ngành kinh tế thủy sản ngày càng được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn và là một trong những hướng ưu tiên của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.

Ngành thủy sản được xác định là giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, bởi vì nó khai thác và phát triển một trong những nguồn tài nguyên có thể tái sinh của đất nước.

Lợi thế của ngành thủy sản nước ta

Việt Nam có bờ biển dài 3260 km, 112 cửa sông lạch, vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1triệu km2 với 4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên, nhiều eo, vịnh, vụng, đầm, phá và nhiều ngư trường, trữ lượng hải sản gần 3 triệu tấn. Thềm lục địa nước ta rộng hơn 1 triệu km2 (gấp 3 lần diện tích đất liền), diện tích mặt nước 1triệu km2, trong đó diện tích khai thác đạt 553.000 km, nhưng hiện tại mới chỉ khai thác được khoảng 65% nguồn lực hải sản cho phép.

Tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản nước ta rất lớn với 1,4 triệu ha mặt nước nội địa, 300.000 ha bãi triều, 400.000 ha hồ chứa, sông suối, 600.000 ha ao hồ nhỏ ruộng trũng, có thể đưa vào sử dụng để nuôi trồng thủy sản. Năng suất nuôi trồng thủy sản mới chỉ bằng 10%- 25% năng suất của các nước trong khu vực.

Theo Bộ Thủy sản, Việt Nam có trên 2000 loài cá, trong đó có khoảng 100 loài có giá trị kinh tế cao. Bước đầu đánh giá trữ lượng cá biển trong vùng thềm lục địa khoảng trên 4 triệu tấn. Khả năng khai thác hàng năm khoảng 1,67 triệu/năm. Tình hình cụ thể của các loài cá:

-Cá tầng đáy: 856.000 tấn, chiếm 51,3%.

-Cá nổi nhỏ: 694.000 tấn, chiếm 41,5%.

-Cá nổi đại dương (chủ yếu là cá ngừ): 120.000 tấn, chiếm 7,2%.

Trong đó, phân bố trữ lượng và khả năng khai thác giữa các vùng như sau:

-Vịnh Bắc Bộ: trữ lượng: 681.166 tấn, khả năng khai thác: 271.467 tấn (chiếm 16,3%).

-Biển Trung Bộ: trữ lượng: 606.399 tấn, khả năng khai thác 242.560 tấn(chiếm 14,3%).

-Biển Đông Nam Bộ: trữ lượng: 2.075.889 tấn, khả năng khai thác: 830.456 tấn (chiếm 49,3%).

-Biển Tây Nam Bộ: trữ lượng: 506.679 tấn, khả năng khai thác: 202.272 tấn (chiếm 12,1%).

Việt Nam tuy có vùng biển trải dài khắp cả nước nhưng sản lượng khai thác không đồng đều ở các vùng. Theo ước tính, vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam có tổng trữ lượng trên 3 triệu tấn cá, 50.000- 60.000 tấn tôm, 30.000- 40.000 tấn mực.

Mặc dù vậy, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng như đã nêu trên, trong thời gian hơn một thập kỷ qua, ngành thủy sản Việt Nam, đứng trước nhu cầu mạnh mẽ của thị trường thế giới cũng như nhu cầu về thực phẩm của đất nước đã có những bước phát triển ngoạn mục và trở thành một trong những ngành kinh tế then chốt của đất nước.

Vai trò của ngành thủy sản trong việc tạo công ăn việc làm

Công nghiệp đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đảm bảo việc làm thường xuyên cho khoảng 3 triệu lao động, đặc biệt là từ năm 1995, số lao động thủy sản là 3,03 triệu người. Khoảng 3,8 triệu người sống trong các hộ gia đình làm nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Như vậy, khoảng 6,8 triệu người chiếm 8,7% dân số sống phụ thuộc vào ngành thủy sản như một nguồn sinh sống.

Tổng số lao động có thu nhập từ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản cũng như từ các ngành và các hoạt động hỗ trợ thủy sản ước tính lên tới 8 triệu người. Ngoài ra, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản còn đảm bảo việc làm không thường xuyên và thu nhập phụ cho hơn 20 triệu người.

Theo dự tính, số lao động trong ngành thủy sản năm 2000 sẽ là 3,4 triệu người (trong đó: khai thác hải sản khoảng 420.000 người, nuôi trồng thủy sản khoảng 559.364 người, chế biến thủy sản: 58.768 người, lao động dịch vụ nghề cá khoảng 1.991.868 người). Do vậy số đân số dựa vào nghề cá sẽ tăng lên khoảng 8,1 triệu người vào năm 2000 và 10 triệu người vào năm 2010. Hơn nữa, thu nhập trực tiếp của những người lao động thường xuyên trong nghề cá và nuôi trồng thủy sản dự tính sẽ tăng trung bình 16%/năm trong thời gian nêu trên. Trên 1,2 triệu người trong các hộ gia đình phụ thuộc vào nghề cá và nuôi trồng thủy sản sẽ có thêm thu nhập vào năm 2000. Điều đó có nghĩa là số dân được ngành thủy sản hỗ trợ sẽ tăng 3 triệu người.

Để trình bày cho mọi người biết về vai trò của sinh học, em sẽ lựa chọn bao nhiêu nội dung sau đây?

(1) Tạo ra các giống cây trồng sạch bệnh, các loài sinh vật biến đổi gene.

(2) Xây dựng các mô hình sinh thái nhằm giải quyết các vấn đề về môi trường.

(3) Đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên.

(4) Dựa vào đặc điểm di truyền của tính trạng, dự đoán được khả năng mắc bệnh ở đời con. Qua đó, tư vấn và sàng lọc trước sinh nhằm hạn chế dị tật ở thai nhi.

(5) Thông qua các thiết bị hiện đại, dự đoán được chiều hướng thay đổi của khí hậu, thời tiết.

Báo Dân tộc và Phát triển. Diện tích nuôi cá da trơn công nghiệp ở ĐBSCL tăng mạnh tại website: http://cema.gov.vn, download 7/1/2013.

Bộ NN &PTNT, 2009a. Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch tháng 9 năm 2009 ngành NN& PTNT, 19 trang.

Bộ NN & PTNT, 2009b. Quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản vùng ĐBSCL đến 2015 và định hướng đến năm 2020, 226 trang.

Bộ NN & PTNT, 2010. Báo cáo tổng kết năm 2010 và kế hoạch thực hiện năm 2011.

Bộ NN & PTNT, 2012a. Báo cáo kết quả thực hiện 5 tháng năm 2012 ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 17 trang.

Bộ NN & PTNT, 2012b. Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch 4 tháng năm 2012 ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 16 trang.

Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, 2013. Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch 3 tháng năm 2013 ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 16 trang.

Cao Lệ Quyên, 2006. Xóa đói giảm nghèo và hỗ trợ rủi ro trong nuôi trồng thủy sản tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Thủy sản số 11, trang 31–32.

Christopher L. D., Nikolas, W., Mark W. R., Siet, M. và Mahfuzuddin A., 2003. Outlook for Fish to 2020. Outlook for Fish to 2020: Meeting Global Demand, World fish and World Bank, 27pp.

Đỗ Minh Chung và Lê Xuân Sinh, 2011. Phân tích chuỗi giá trị cá lóc (Channa sp.) nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Thủy sản lần 4: 512-523, NXB Nông nghiệp.

Donald D. Zweig, Hà Xuân Thông, Lê Thanh Lựu, Jonathan R. Cook và Michael Phillips, 2005. Việt Nam: nghiên cứu ngành thủy sản, Báo cáo chương trình uỷ thác toàn cầu của Nhật Bản dành cho phát triển bền vững của thủy sản Việt Nam và ngân hàng thế giới, 51 trang.

Dương Nhật Long, Nguyễn Thanh Hiệu và Nguyễn Anh Tuấn, 2006. Thực Nghiệm nuôi cá rô đồng thâm canh trong ao đất tại Long An, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, 93 - 103.

FAO, 2011. State of the world review of Fisheries and Aquaculture. Rome, 89pp.

FAO, 2012. State of the world review Fisheries and Aquaculture, Rome, 202pp.

Huỳnh Thị Quyền và Lê Xuân Sinh, 2011. Hiệu quả tài chính và khả năng chấp nhận nuôi chuyên canh tôm sú hay luân canh tôm sú và tôm càng xanh ở huyện Tân Trụ, Long An, Hội nghị Khoa học Thủy sản lần 4 - Trường Đại học Cần Thơ, 455-467. NXB Nông nghiệp.

Lê Xuân Sinh, Đỗ Minh Chung, Huỳnh Văn Hiền và Trương Quốc Phú, 2007. Nghiên cứu thị trường nghêu ở tỉnh Trà Vinh trong mối liên hệ với các tỉnh ven biển phía Nam, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ :(8) 36-46.

Lê Xuân Sinh, Đỗ Minh Chung, Phan Thị Ngọc Khuyên và Từ Thanh Truyền, 2006. Tác động về mặt xã hội của các hoạt động nuôi trồng thủy sản lợ mặn ven biển ĐBSCL, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ (2): 220-234.

Long, D.N.; N.A. Tuan, N.V. Trieu; L.S. Trang; L.M. Lam; and J.C. Micha, 2004. Artifical reproduction, lavae rearing and market production techniques of a new species for fish culture: Snakehead (Channa striata Bloch, 1795). Acad. R. Sci. Outre - Mer 50 (2004 - 4): p497-519.

Ministry of fisheries and the World Bank, 2005. Final report, Vietnam: fisheries and aquaculture sector study, 59pp.

Ngọc Hân, 2013. Đồng Tháp: Vụ tôm càng xanh 2012 đạt năng suất thấp, Báo Đồng Tháp, 02/01/2013.

Nguyễn Hoàng Đức Trung và Trần Thị Thanh Hiền, 2011. Xác định nhu cầu chất béo của cá tra (Pangasianodon hypopthalmus) giống, Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Thủy sản lần 4, trang 155-165, NXB Nông nghiệp.

Nguyễn Minh Tú và Trương Hoàng Minh, 2011. Sinh kế và sự phụ thuộc của cộng đồng vào nguồn lợi thủy sản ở vùng ven biển Bạc Liêu. Hội nghị Khoa học Thủy sản lần 4, Trường Đại học Cần Thơ, trang 488-498, NXB Nông Nghiệp.

Nguyễn Sỹ Minh, 2012, Đánh giá hiệu quả sản xuất của các mô hình nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng thâm canh ở Kiên Giang, Luận văn tốt nghiệp cao học, Trường Đại học Cần Thơ, 80 trang.

Nguyễn Thanh Phương và Trần Văn Bùi, 2006. Ảnh hưởng của nguồn tôm mẹ lên sức sinh sản và chất lượng ấu trùng tôm càng xanh. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, 124-133.

Nguyễn Thanh Phương, Vũ Nam Sơn và Võ Văn Bé, 2008. Phân tích các khía cạnh kỹ Thuật và kinh tế mô hình nuôi tôm sú (Penaeus monodon) thâm canh rải vụ ở Sóc Trăng. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ (2):157-167.

Nguyễn Thanh Phương, Trần Thanh Hải và Nguyễn Quang Trung, 2008. Ảnh hưởng của mật độ lên năng suất và hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium resenberii) luân canh với lúa, Tạp chí Khoa học, (2): 96-105.

Nguyễn Thanh Toàn, 2006. Nghiên cứu thị trường các sản phẩm thủy sản ở tỉnh Cà Mau, Tạp chí Khoa học Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ (2): 247-258.

Phan Văn Út, 2006. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nuôi trồng thủy sản ở Cà Mau, Tạp chí Thủy sản số 11, trang 18-19. Bộ Thủy sản.

Simon F.S., Erik L. and Derek, S., 2005. Asian fisheries today: The production and use of low value/trash fish from marine fisheries in the Asia-Pacific region. Asia-Pacific Fishery Commission, FAO, 55 pp.

Sở NN&PTNT Tiền Giang, 2010. Báo cáo tổng kết hàng năm, 25 trang.

Sở NN&PTNT tỉnh An Giang, 2008. Báo cáo tổng kết hàng năm, 32 trang.

Sở NN và PTNT Thành phố Hồ Chí Minh, 2009. Cẩm nang nuôi tôm thẻ chân trắng (Penaues vannamei), 32 trang.

Tổng cục Thủy sản, 2010. Hiện trạng và định hướng phát triển sản xuất tôm, bản tin thương mại thủy sản số 36, trang 5.

Tổng cục Thủy sản, 2012. Báo cáo tóm tắt quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn 2030. Hà Nội, tháng 7/2012. Bộ NN&PTNT, 110 trang.

Tống Phước Hoàng sơn, Lê Thị Thu Hà và Lê Lan Hương, Pascal Raux, Jacque Populus và Eve Auda, 2006. Một số công cụ phục vụ quản lý tổng hợp NTTS bền vững ở ĐBSCL. Tạp chí Khoa học Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ (2): 235-246.

Trần Đắc Định và Võ Thành Toàn, 2011. Mùa vụ và kích cỡ di cư của cá kèo (Psudapocryptes elongates) trong điều kiện ao nuôi, Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Thủy sản lần 4, trang 145 - 154, NXB Nông Nghiệp.

Trần Ngọc Nguyên, Nguyễn Thành Tung, Nguyễn Minh Thông, Lê Ngọc Diện, Phan Văn Thành, Dương Thanh Thảo, 2000. Nghiên cứu sinh sản cá thác lác (Notopterus notpterus), Báo cáo khoa học, Chi cục BV &PTNL Thủy sản Cần Thơ, Sở NN&PTNT Cần Thơ, Sở Khoa học-CN và MT Cần Thơ.

Trần Trọng Thương, 2005. Kỹ thuật nuôi nghêu, website Bình Thuận: www.binhthuan.gov.vn download ngày 2/4/2012.

Trần Văn Việt, 2006. Ảnh hưởng của việc đầu tư và quản lý đối với nghề nuôi tôm ven biển của tỉnh Sóc Trăng. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ (2): 259-267.

Vũ Văn Dũng, 2007. Tồn tại và các giải pháp phát triển nghề cá da trơn bền vững ở ĐBSCL, Tạp chí Thủy sản số 7. Bộ Thủy sản.

Theo báo cáo tại Hội nghị Sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ công tác 6 tháng cuối năm 2024 của Bộ NN&PTNT diễn ra sáng 5/7, toàn ngành triển khai Kế hoạch công tác 6 tháng đầu năm trong điều kiện biến động thị trường, thời tiết nắng nóng gay gắt, hạn hán tại các địa phương vùng Tây Nguyên, miền Trung, xâm nhập mặn tại các tỉnh phía Nam…Trong bối cảnh đó, Bộ và toàn ngành đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai các giải pháp phát triển sản xuất, ứng phó với biến động thị trường, thời tiết, dịch bệnh; xúc tiến thương mại, mở cửa thị trường nhằm đẩy mạnh tiêu thụ nông sản.

6 tháng đầu năm, tổng sản lượng thủy sản đạt 4,38 triệu tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, khai thác 1,95 triệu tấn, tăng 1% (khai thác biển 1,86 triệu tấn, tăng 0,9%). Nuôi trồng 2,43 triệu tấn, tăng 4,1% (cá tra 831,8 nghìn tấn, tăng 5,4%; tôm sú 122,1 nghìn tấn, tăng 2,3%; tôm thẻ 332,7 nghìn tấn, tăng 5,6%).

Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 6 tháng đầu năm đạt 29,2 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm ngoái; riêng với thủy sản là 4,36 tỷ USD, tăng 4,9%. Đóng góp vào kết quả đó, có 7 sản phẩm, nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD, trong số này tôm đạt 1,63 tỷ USD.

6 tháng đầu năm, tôm là 1 trong 7 mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Ảnh: ST

Thời gian qua, toàn ngành nông nghiệp đã thực hiện chuyển mạnh từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, từ phát triển đơn ngành sang hợp tác, phát triển đa ngành; thúc đẩy tích hợp đa giá trị trong sản phẩm nông lâm thủy sản; chuyển từ chuỗi cung ứng nông sản sang phát triển các chuỗi ngành hàng.

Trong lĩnh vực thủy sản, đã tổ chức lại sản xuất, phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu hàng hóa, sản xuất những sản phẩm mang đặc thù, kết hợp với nhiều lĩnh vực, ngành nghề tạo thành liên kết chuỗi giá trị; phát triển tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương. Đã hình thành được nhiều chuỗi liên kết có hiệu quả kinh tế cao như: chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ cá tra ở An Giang, Đồng Tháo; chuỗi giá trị nuôi và chế biến, xuất khẩu ngao ở Nam Định; chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ cá diêu hồng trong hồ thủy lợi tại Bình Định; mô hình nuôi cá chim vây vàng bằng lồng HDPE, nuôi cá chẽm quy mô lớn (tuần hoàn, khép kín) trên biển tại vịnh Vân Phong, Khánh Hòa; mô hình nuôi tôm sinh thái, hữu cơ ở Cà Mau, Bạc Liêu; mô hình trồng rong kết hợp với du lịch tại Khánh Hòa, Quảng Ninh.

Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản được chứng nhận VietGAP là 10.998 ha với 759 cơ sở được chứng nhận (tăng 1.631 ha so với cùng kỳ năm ngoái); 4.135 trang trại và hộ chăn nuôi được chứng nhận VietGAHP (giảm 747 trang trại và hộ chăn nuôi so với cùng kỳ năm 2023). Qua đó, đã góp phần đảm bảo an toàn thực phẩm, củng cố niềm tin của người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Đáng chú ý, số cơ sở xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào các thị trường quốc tế không ngừng tăng lên. Cụ thể Hàn Quốc có 777 cơ sở, EU (522 cơ sở), Vương quốc Anh (638 cơ sở), Trung Quốc (662 cơ sở), Liên minh kinh tế Á Âu (83 cơ sở), Hoa Kỳ (27 cơ sở), Braxin (192 cơ sở), Achentina (212 cơ sở), Indonesia (836 cơ sở), Đài Loan (773 cơ sở).

Trong năm 2024, Việt Nam đặt mục tiêu giá trị xuất khẩu thủy sản tăng 3,7 – 4,0%; tổng sản lượng thủy sản 9,22 triệu tấn (nuôi trồng 5,68 triệu tấn; khai thác 3,54 triệu tấn). Để đạt được kết quả đó, Bộ NN&PTNT chỉ đạo Cục Thủy sản và các đơn vị liên quan cần tập trung thực hiện trình ban hành các chính sách phát triển thủy sản; triển khai các Chương trình quốc gia và Đề án thực hiện Chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2030, Quy hoạch bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, Quy hoạch Hệ thống cảng cá và khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá.

Đối với khai thác, cần theo dõi sát thời tiết, dự báo ngư trường để hỗ trợ ngư dân sản xuất an toàn, hiệu quả. Đẩy mạnh hợp tác, liên kết chuỗi sản xuất; phát triển mô hình hợp tác cộng đồng giúp ngư dân yên tâm bám biển, giảm chi phí, tăng hiệu quả kinh tế; nâng cao chất lượng khai thác; quản lý tốt hạn ngạch khai thác hải sản, giảm dần số lượng tàu cá và đẩy mạnh thực hiện Đề án chuyển đổi từ nghề khai thác xâm hại nguồn lợi thủy sản và môi trường sang làm các nghề khác. Chỉ đạo, đôn đốc thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 10/4/2024 của Ban Bí thư và Chương trình hành động, Kế hoạch của Chính phủ số 52/NQ-CP ngày 22/4/2024 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chống khai thác IUU và phát triển bền vững ngành thủy sản; chuẩn bị làm việc với đoàn thanh tra của EC.

Đối với nuôi trồng, cần đẩy mạnh các đối tượng chủ lực (tôm sú, tôm chân trắng, cá tra), đẩy mạnh nuôi trồng trên biển và các đối tượng có giá trị kinh tế cao; phát triển các vùng nuôi thâm canh ứng dụng công nghệ cao, nuôi an toàn sinh học, nhân rộng các mô hình nuôi theo chuỗi liên kết có hiệu quả kinh tế cao… Tăng cường quan trắc, cảnh báo môi trường các vùng nuôi trồng tập trung để kịp thời đưa ra khuyến cáo và cảnh báo nhằm hạn chế thiệt hại cho người nuôi.

+ Đáp án A: thể hiện vai trò cung cấp thực phẩm cho con người.

+ Đáp án B: thể hiện vai trò cung cấp nguyên liệu cho ngành chăn nuôi

+ Đáp án C: thể hiện vai trò xuất khẩu

+Đáp án D: thể hiện vai trò bảo vệ môi trường và đảm bảo chủ quyền quốc gia